Trang của lớp Y6B Đại Học Y Huế khóa 89-95
Thứ Tư, 24 tháng 12, 2008
Chàng trai độc thân - Bachelor Boy - Cliff Richard - 1963
"Bachelor Boy" (written by Bruce Welch and Cliff Richard) was a double 'A' side with "The Next Time" the first of three number one hit singles from the Cliff Richard musical Summer Holiday. It and was followed up at number one with the film's title track Summer Holiday, to be followed by The Shadows and their "Foot Tapper" well known nowadays as the theme tune for the BBC Radio 2 programme Sounds of the 60s.
The song was also included on the January 1963 album "Summer Holiday"
The film was the most successful box-office attraction of the year.
Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2008
Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2008
Chúc Hạnh Phúc !!! (Hay Bài Toán Của Mấy Bà)
Người = ăn + ngủ + làm việc + hưởng thụ
Heo = ăn + ngủ
Suy ra:
Người = heo + làm việc + hưởng thụ
Từ đó:
Người - hưởng thụ = Heo + làm việc
Nghĩa là:
Người mà không biết hưởng thụ thì giống như heo làm việc.
Đàn ông = ăn + ngủ + kiếm tiền
Heo = ăn + ngủ
Từ đó ta có:
Đàn ông = Heo + kiếm tiền
Đàn ông - kiếm tiến = Heo
Hay là:
Đàn ông mà không chịu kiếm tiền là đồ heo.
Phụ nữ = ăn + ngủ + tiêu sài
Heo = ăn + ngủ
Phụ nữ = Heo + tiêu sài
Phụ nữ - tiêu sài = Heo
Hay là:
Phụ nữ mà không biết tiêu sài là đồ con heo.
Túm lại:
Đàn ông phải kiếm tiền đừng để phụ nữ thành heo!
Phụ nữ phải biết tiêu sài chứ không mấy ông biến thành heo tội nghiệp!
Ông + Bà = 2 con heo
Chúc mấy con heo luôn hạnh phúc :)).
Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2008
Giấc mơ Mỹ
Giấc mơ ấy cũng được thể hiện qua lời tuyên bố giải phóng nô lệ của Tổng Thống Abraham Lincoln,mà trước khi ngã xuống dưới phát đạn oan nghiệt của một kẻ cuồng tín,đôi mắt ông vẫn còn đau đáu hướng về cửa biển New York,nơi Nữ Thần Tự do vẫn đang giương cao ngọn đèn của tự do bất diệt.
Giấc mơ ấy cũng đã từng vang lên trong bài diễn văn của mục sư Luther King,Tôi có một giấc mơ,một giấc mơ nghẹn ngào của bao thế hệ Con Người dũng cảm đi tìm tự do.
Giấc mơ ấy đã từng bị hoen ố bởi lối hành hình Lynch,bởi những gì đảng KKK đã làm,bởi những lời nhục mạ mà bọn trẻ con da trắng đã dành cho cô bé Condie đáng thương,người sau này trở thành nữ cố vấn da đen đầu tiên của Hội đồng An ninh quốc gia đầy quyền lực của nước Mỹ,và nay là đương kim Ngoại Trưởng,một nhân vật uy quyền chỉ sau Tổng Thống Hoa Kỳ.
Giấc mơ ấy đã dần thành hiện thực qua những Rice,những Powel và ở một khía cạnh khác, là
Thế nhưng nước Mỹ sẽ ăn nói ra sao với phần còn lại của thế giới khi vẫn tự xưng là thế giới của tự do và tôn trọng sự khác biệt mà không có lấy nổi một vị Tổng Thống da màu?
Nay câu trả lời đã rõ.Và cái cách người dân Mỹ thể hiện câu trả lời ấy mới thú vị làm sao,khi Obama đã đoạt số phiếu áp đảo quá dư để thành Tổng Thống Hoa kỳ khi tiến trình kiểm phiếu chưa hoàn tất.Ta hãy nhớ lại G.W. Bush đã vất vả với Al Gore như thế nào,và sau đó là với Kerry như thế nào khi giành giật nhau từng lá phiếu cuối cùng của những cử tri cuối cùng ở những bang cuối cùng.
Barack Obama có phải là con của một tỷ phú,một trùm tài phiệt phố Wall hay không?Hoàn toàn không.Ông chỉ là một cậu bé nghèo đáng thương,thiếu tình cảm của cha từ tấm bé.Và ông cũng không được mặc định để trở thành Tổng thống Hoa Kỳ mà phải tự thân vật lộn với bao khó khăn để từng bước đi lên con đường quyền lực bằng chính khối óc và tài hùng biện của chính mình.Ông không được "cơ cấu" để trở thành Tổng Thống như một số nền "dân chủ" khác.Đó chính là sự khác biệt.
Những gì Obama phải thực hiện để xứng đáng với sự tin cậy của cử tri Mỹ,với sự ngạc nhiên đầy thán phục của hầu hết nhân loại đang còn ở phía trước.Và thật không dễ dàng cho ông với một xã hội Mỹ đang đòi hỏi sự thay đổi diện mạo của mình.Nhưng tôi tin với những gì Obama đã làm được cho tới nay,lịch sử nước Mỹ đã thật sự sang trang.
Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2008
Lịch sử phát triển của trường Đại Học Y Huế
- GS LÊ TẤN VĨNH (1961-1962) (Không có hình)
- BS LÊ KHẮC QUYẾN (1962-1967)
- GS BÙI DUY TÂM (1967-1972)
- BS LÊ BÁ VẬN (1972-1975)
- PGS.TS LÊ VĂN PHƯỚC (1976-1978)
- BS HỒ VĂN CUNG (1978-1982)
- GS.VÕ PHỤNG (1982-2000)
Mấy người sau thì mấy bồ bổ sung thêm dùm. Mà sao đến đến giờ chẳng có Cô Hiệu Trưởng nào nhỉ, đúng là trọng nam khinh nữ quá. I/ Ban Điều Hành và Giảng Huấn thuộc Đại Học Y Khoa Huế:
LM Cao văn Luận | BS Nguyễn Văn Vĩnh | BS Nguyễn Tinh Châu |
II/ Phái Bộ Đại Học Freiburg:
GS và Bà Horst-Guenther và Elisabetha Krainick
GS và Bà Raymund Disher
GS Alois Altekoester
GS Kaufman
GS và Bà Pering
GS và Bà Zwirner
GS Seip
GS Eric Wulf
GS Raymund Weiss
GS Rudolf
GS Bolzer
III/ Các BS người Pháp thuộc Phái Bộ Mission de Cooperation technique và các BS của phái bộ Mỹ:
Dr. Francois Moulin | Dr. Alain Richard | Dr. Lehir, Trưởng văn phòng Organisation mondiale de la Santé. |
IV/ Các GS, BS thuộc Đại Học Y Khoa Sài Gòn, Trường Quân Y, Viện Pasteur và Bộ Y Tế:
GS Trần Anh | BS Bùi Quốc Hương GS Nguyễn Văn Chất | GS Trần Văn Bảng |
V/ Các Bác Sĩ và nhân viên thuộc các Cơ sở Giáo dục, các Bệnh viện, và các Trung tâm Y tế:
Bệnh Viện Trung Ương Huế | Hôpital Grall |
Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2008
Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2008
Một số nhân vật Tam quốc qua góc nhìn của Huy tôi.
Nghe theo lời của Lý Nho, Đổng Trác cho vời Sái Ung. Sái Ung không ra. Trác doạ nếu không ra sẽ giết chết cả nhà. Thế là Ung phải ra..
Trác thừa biết uy tín và tài năng biết điều phải điều trái của Ung trong vụ dâng sớ tố cáo bọn hoạn quan trước đó. Nhưng liệu Trác có cần nghe Ung chỉ bảo cho mình những điều tương tự như thế?.
Không đâu. Chân lý của Trác là theo kiểu “Có chính quyền là có tất cả”. Trước văn võ bá quan Trác đã từng tuyên bố:” 天下事在我!我今为之,谁敢不从! 汝视我之剑不利否”.(Việc thiên hạ trong tay tao. Nay tao làm thế đấy, kẻ nào dám không nghe? Hãy nhìn thanh gươm này có sắc hay không!) Thế thì cần gì cái lão Sái Ung kia tư vấn điều này điều nọ về chân lý về lẽ phải…Mọi mưu mô quỷ kế thì đã có Lý Nho rồi.
Thế mà Trác vẫn cần Sái Ung đấy. Trác đã thăng chức cho Ung 1 tháng 3 lần đến chức Thị trung, hậu đãi lớn. Trác quyết tâm biến Sái Ung thành một cây cảnh thực sự tươi tốt để dù sao cũng được tiếng là chiêu hiền đãi sỹ. Thế thôi.
Một điều khó hiểu là: Sái Ung thừa biết tim đen của Trác trong việc sử dụng mình như một cây cảnh. Sái Ung cũng hàng ngày thấy những trò khát máu man rợ của Trác.
Thế mà khi đầu Trác được bêu ngoài chợ, chỉ có một người duy nhất đến khóc là Sái Ung. Khó hiểu không?
Thật sự cũng đâu có gì khó hiểu.
Đâu phải cứ văn tài tột bực thì nhân cách cũng cao quý liền theo.Trần Lâm đấy,thảo hịch giúp Viên Thiệu chửi Tào Tháo không còn cái mủng rách mà khi Thiệu bại lại khúm núm theo hầu Tào,còn tự nhận mình là con chó nhà chỉ biết chủ nó.
Sái Ung thời gian đầu cũng có cốt cách đại nho,chống lại Thập thường thị.Bị cách chức về quê làm ruộng không kham nổi thời buổi thóc cao gạo kém,vợ bìu con ríu đành tặc lưỡi xuôi theo khi Đổng Trác đến mời.Làm việc với Trác,được huấn thị hằng ngày về quyền và nghĩa vụ của trí thức trong thời đại mới,Sái Ung ngẫm ra cái lý sống trên đời rằng một chính quyền ra đời trên mũi súng (xin lỗi,gươm) thì đâu có chỗ cho trí thức.Nếu muốn có vài ký gạo nuôi vợ con thì khôn hồn...Vậy là Ung ta ung dung véo von trong cái lồng son bao cấp của Trác.Trác chết,chư hầu bốn phía nổi như ong,thời buổi kinh tế thị trường đâu còn ai bao cấp.Lười biếng quen thói,sợ đói ăn nên Ung khóc to tiếc những ngày bao cấp xa xưa thôi chứ có gì lạ đâu?
Bàn về Từ Thứ
Xét về tài thao lược,có lẽ Thứ chỉ chịu xếp sau Ngoạ Long,Phượng Sồ.Vậy mà một chút sơ sểnh,Thứ phải lóc cóc về Tào,bắt đầu cuộc đời thân ở Tào,lòng ở Lưu.Không biết Thứ có mắc cỡ khi hàng tháng nhận lương đều đặn mà chẳng chịu làm gì,chẳng tham mưu cho Tào một ý kiến ý cò gì.Rõ Thứ giống một bộ phận công chức ngày nay:Ai cũng nhận lương mà không ai làm việc....Biết mà không nói.Kệ cho ông chủ Tào suýt chết cháy ở Xích Bích,Thứ lặng lẽ chuồn về Hứa Đô ngồi chơi cờ tướng.Không biết sau vụ đó Tháo có đuổi việc Thứ vì thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng không,chứ các sếp chúng ta bây giờ nên cẩn thận với những nhân viên như thế này.
Trương Phi đánh Đốc Bưu
Rõ là anh chàng họ Trương này sai lè lè ra rồi.Đốc Bưu là quan thanh tra,thì hiển nhiên là có đức hách dịch và đức vòi tiền như các quan thanh tra khác.Đời nào cũng vậy.Có trách là trách ông huyện Lưu Bị không biết cách bòn khoét của dân,ăn phần trăm các dự án tái thiết huyện sau cuộc chiến tranh với giặc Khăn Vàng để đút lót cho Bưu.Mà không biết ăn thì đừng làm quan,sớm muộn gì cũng rước hoạ vào thân.
Trương Phi cậy thân thế là em quan,dù là em nuôi,xông vào trói đánh Đốc Bưu,là vướng hai tội:Một là chống người thi hành công vụ,hai là tội làm nhục người khác.Còn thêm lỗi cậy thân thế con em quan chức để quậy phá gây rối,chưa kể có thể hành động khi nồng độ cồn trong máu vượt quá mức cho phép.Từng ấy thứ đủ đưa Phi ra toà với mức án từ 3 đến 7 năm rồi.
Còn ông huyện Bị,đã không đem phép nước ra trị ông em của mình,lại a dua theo treo ấn bỏ quan mà chưa được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền.Tự ý bỏ việc như vậy là vi phạm pháp lệnh công chức rồi,lại bao che cho tội phạm Trương Phi,ông huyện Bị này chắc cũng phải ra toà vì tội không tố giác tội phạm quá.
Tại sao Tào Tháo giết Dương Tu ?
Thứ nhất,Tu đã cố ý đưa thông tin sai lạc.Trận đánh với Lưu Bị tại Nam Trịnh (Đông Xuyên),Tháo giao mật khẩu cho Hạ Hầu Đôn là Kê Cân,có nghĩa là gân gà,Tu đã thông tin cho binh lính thuộc quyền là Thừa tướng xuống lệnh rút lui nên sắm nắm hành trang chuẩn bị về.
Thứ hai,Tu cố ý làm lộ bí mật công tác.Tháo dặn lính hầu là Thừa tướng hay nằm mê giết người,nên không được ai lại gần khi Tháo ngủ.Một ngày Tháo đang ngủ trong trướng,đạp rơi chăn,tên lính hầu thấy vậy nhặt chăn đắp lại cho chủ.Tháo vùng đứng lên tuốt kiếm chém bay đầu kẻ khốn khổ rồi trùm chăn ngủ tiếp.Lát sau Tháo ngồi dậy vờ khóc lóc :Ai giết tên hầu của ta thế này,rồi cho làm ma to.Ai cũng thương xót cho tên hầu,chỉ có Dương Tu cười khẩy:Thừa tướng không ngủ mê đâu,ngươi mới là kẻ ngủ mê.Lộ bí mật công tác của Thừa tướng.
Thứ ba,Tu lợi dụng quyền tự do dân chủ.Khi Tháo đến xem việc sửa chữa cổng vườn phủ Thừa tướng,lấy bút đề chữ Hoạt vào cổng rồi bỏ về.Tốp thợ ngơ ngác không hiểu Thừa tướng muốn gì.Tu láu táu nói:Chữ Hoạt để bên cạnh chữ Môn (cửa) thành chữ Khoát nghĩa là rộng.Tốp thợ theo lời Tu sửa cổng hẹp lại.Chuyện chơi chữ là độc quyền của Thừa tướng mà Tu lại dám tự do hiểu ý thì...
Thứ tư,Tu lạm dụng chức vụ quyền hạn.Khi Tháo muốn thử tài hai con là Phi và Thực,sai hai người ra cổng thành nhưng ngầm ra lệnh cho lính canh ngăn lại.Phi không qua được cổng đành trở về.Chỉ có Thực nhờ Tu bảo trước nên hiên ngang tuốt kiếm chém bay đầu quân canh để đi qua với lý do:Ta phụng mệnh Thừa tướng ai dám ngăn trở...Vậy Tu đã lạm dụng chức vụ của mình được ở bên Thừa tướng biết được thông tin và bán thông tin cho Thực gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng.
Vậy Tu chết là phải lắm.Đâu có oan.
Thứ Ba, 14 tháng 10, 2008
Chuyện...không muốn nói.
Hãy để ngày mai chuyện bữa nay
Ngày mai tớ sẽ...sẽ như vầy
Như vầy?...Không được!...Ừ cũng được!
Cũng được...mà như tớ mấy ai.
------------------------------------
Chuyện đức ông lừng khừng
Chẳng biết là nên nói hay đừng.
Ông Ba Thợ Tiện đã vào rừng
Bước lỡ bước lầm thì...bước lại
Bưng!
------------------------------------
Chuyện hai ông Đồ Phê
Tam Nguyên Yên Đổ gật gù nhắc
Tú Kép Vị Xuyên chua chát cười
À ra cũng một đồ phê cả
Phê mãi nên không khỏi ngậm ngùi.
------------------------------------
Bs. Bùi Quốc Huy
Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2008
Chuyện cổ tích về họ nhà Rùa
Ngày xưa Thỏ thi chạy với Rùa.
Thỏ năng lực tài mạo tót vời lại thêm phần siêng năng tập luyện.Rùa lười nhác lại chậm chạp,suốt ngày núp bóng dưới ô che,số má gì mà dám đua với Thỏ.
Nhưng họ nhà Rùa đông.Và lắm tay mưu ma chước quỷ.
Hội đồng Rùa họp.Nhiều kế sách được đưa ra.Cuối cùng...
Ngày thi đã tới.
Thỏ tự tin,phóng người lao vun vút...Chặng thứ nhất...Rùa tới rồi đây mà!...Chặng thứ hai...Rùa tới từ sớm mà!...Chặng thứ ba...thứ tư...
Thỏ thất thểu rời trường thi chấp nhận thất bại mà không biết đằng sau là nụ cười đắc chí của họ nhà Rùa với bốn chú Rùa vừa hoàn thành cuộc thi vất sờ vả...
Cho đến ngày Rùa buộc phải vào đội tuyển điền kinh của một khu rừng nọ đi dự Olympic...
Và thế là ngày nay Rùa phải chịu hình phạt đội mấy cái bia đá nặng ì thay vì phải gánh bia...miệng.
Đó là câu chuyện về các chú Rùa.Và chỉ là của các chú Rùa thôi đấy nhé.
-------------------------
Chuyện Bà Rùa ấy
Bà Rùa ấy chuẩn bị đi du lịch.
Chả là các chị Nai,chú Thỏ,ông Đại Bàng,thím Trăn Gió thậm chí thằng cu Cù Lần hàng xóm nhà bà đều đã đi du lịch,đi đó đi đây.Khi về họ huyên thuyên đủ thứ nào là...nào là...Bà Rùa hoa cả mắt.Bà Rùa chóng cả mặt.Bà Rùa tức thở.Ô,thế này thì không được.Tức quá đi mất.Du lịch hay là chết.Bà Rùa phải đi du lịch thôi.Bà Rùa quyết định như thế.
Để chuẩn bị cho chuyến đi ra khỏi bìa làng,Bà Rùa đã cần hai -tháng -ba -ngày- và- mười- sáu -giờ- hai- mươi-mốt- phút để lễ mễ,lỉnh kỉnh khuân về hai ký và một- trăm- hai- mươi -bốn- gờ -ram thức ăn.Bà cáu lên khi thấy thìm Nai lại vừa hoàn thành chuyến du lịch 3 ngày trở về,đang huyên thuyên chuyện thiên hạ.Kệ,họ khác ta khác.Và Bà Rùa lại ì ạch đi lấy nước...
Rồi cái ngày ấy cũng đến.Từ sáng sớm Bà Rùa trịnh trọng vác túi thức ăn,trịnh trọng chào bà con lối xóm và trịnh trọng bước.Mới xế chiều bà đã ra khỏi nhà.Te tò te.Là lá la...Ta cũng đang đi du lịch nhá.Là lá la...
Hai ngày sau đã thấy Bà Rùa vượt qua nhà chị Thỏ hàng xóm,và là lá la,ta cũng đang đi du lịch.Ai nói ta không du lịch nào.Là lá la...
Hãy đợi đấy.Bà Rùa đang đi du lịch đến bìa làng.Khi nào tới,Bà Rùa sẽ nhắn tin cho nhá.Còn bà con láng giềng hỡi!Hãy đi làm việc và đi ngủ.Hôm nào rảnh lại vèo đi du lịch tiếp.Bà Rùa ấy khác,ta khác...
------------------------
Đếm Rùa
Một Rùa.Một Rùa...lại một Rùa
Cái này là thật.Cái này mua.
Lổm ngổm đếm Rùa hoa cả mắt
Hiền tài...hiện tại.Thật hay đùa?
(Thơ tức cảnh sinh...sự của một du khách đến thăm và tập thể dục tại Công viên Văn miếu trong tương lai do Trung tâm nghiên cứu bảo tồn di sản Tiến sĩ Việt nam đầu tư xây dựng)
Đau Bà Huyện Thanh Quan, xót Bà Chúa Thơ Nôm
(Nguồn : Tiền phong online Thứ Hai, 14/01/2008, 08:54)
Huy tôi tức cảnh sinh thơ ...thẩn:
Của Bà Huyện lại đẩy Bà Hương
Ơi phòng Giáo dục có thấy thương
Dưới kia bọn trẻ tròn xoe mắt
Trên bục cô thầy rớt cả gương (kính)
Chắc là muốn dạy hai trong một
Nên hỏi một câu quá lạ thường
Phen này chắc đổ cho đánh máy
Đâu phải ra đề lúc sương sương.
Bùi Quốc Huy
Nhân đọc bài "Thời gian..."
Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2008
Thời gian...
Thứ Ba, 7 tháng 10, 2008
Cafe ở Đà Nẵng
Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2008
Giải mã nụ cười Di Lạc
Nhưng có nụ cười rất Á đông đã tồn tại hàng ngàn năm nay mà cũng chưa ai phân tích cho hết.Nụ cười Di Lạc.Nụ cười hết cỡ.Dường như tất cả những gì có thể đặt vào tiếng cười cũng đều hiện diện ở đấy.Tôi cứ phân vân tự hỏi,không biết ngài đang cười thành tiếng,cười rung cả cái
bụng "chứa những điều thế gian không chứa được", cười ha ha, để "cười những điều thế gian không cười được" hay là ngài đang cười cái cười vô thanh,cái cười vô vi ,cái cười của vô thường vô ngã.
Lúc nhỏ lên chùa, ngắm tượng ngài,tôi thú vị cho rằng cái ông già này tốt phước,kiếm đâu ra sáu đứa cháu thật vui.Nhưng mà ông sao tốt tướng thế lại để cho sáu cháu nhỏ tí teo.Mãi sau này,qua tìm hiểu mới biết năm đứa nhóc tì kia hóa ra lại là thứ dữ.Sáu đứa nhóc đầu mối của sân giận,của si mê,của tham lam, của thị phi nhĩ ngã.Sáu đứa nhóc ở Tướng là Nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý, ở Pháp là Sắc thanh hương vị xúc giác.Phối hợp lại là chính nó –Ngã chấp ma- thứ ma chướng của ông của
tôi, của cao của thấp,của nặng của nhẹ ,của thiệt của hơn.Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh, lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go.Này văn tôi thơm ông dám chê thối sao.Này tư tưởng tôi cao ông dám phỉ báng sao?
Này chức vị của tôi ông dám tranh giành sao?...sao?...sao?....sao?...?!
Và luân hồi ngay trong kiếp vận của chính mình. Thị chư pháp không Tướng bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm.Thị cố không trung vô Sắc vô Thọ,Tưởng,Hành,Thức diệc phục
như thị.Ôi câu Bát nhã như đánh thức người qua cơn mê lạc.Sắc không khác Không, Không tức là Sắc.Ví như cái tô sành, phần đất sét là Tướng là Sắc vậy, còn khoảng không giữa tô là Pháp là Không vậy.Có cái tô mới có cái khoảng trống giữa tô.Có khoảng trống giữa tô mới làm nên
cái dụng của tô.Ai lấy được giùm cái khoảng không mà không phải lấy phần sành,hoặc lấy riêng phần sành mà không động đến khoảng không.Từ đó mà suy, có không đã cùng đồng hành, thì cao thấp, trước sau, nặng nhẹ,vui buồn,mừng giận, ông tôi có nghĩa gì chớ.Vậy sao không cười?Vậy
sao lại cười?
Được thăng chức – Cười ha ha.Mất chức –Khóc hi hi .Trúng số đề- Cười hô hố.Tan cửa nát nhà – Khóc hu hu.Vậy cái cười đi ngay cái khóc vậy.Trong cái cười đó đã có cái khóc rồi.Trong cái sướng có cái khổ rồi.Trong cái được đã có cái mất rồi.
Vì sao ư? Vì quán thân bất tịnh mà cứ cho là tịnh.Vì quán thọ thị khổ mà cứ cho là lạc.Vì quán tâm vô thường cứ cho là thường.Vì quán pháp vô ngã mà cứ chấp ngã.Đến bậc giác ngộ như Đường Tăng khi về đến đất Phật còn tiếc y bát không trao cho Anan ,Ca diếp để cầu chơn kinh, nên
phải lãnh kinh vô tự.Bài học cho ai không xả chấp.Nụ cười của Di Lạc hiện ra ngay khi ấy đã khiến Đường Tăng hốt nhiên đại ngộ. Vậy ngài cười cái gì ,ôi Di Lạc.Có phải Người cười cái mất của thiên
hạ, để Người sẽ khóc cho cái được của thiên hạ.Cái "được- mất" hữu vi, nhị nguyên nhĩ ngã.
Giả sử có một ai đó nói "Cha mày" trước mặt mình, ồ tức chết đi được, ô tức quá đi mất.Mày phải biết tay ông nhá, mày dám lôi cha bố mày ra chửi hả con, này thì… Thế nhưng cũng câu ấy,hôm nay nói "cha" ba bốn bữa sau gặp lại nói "mày" thì không có sao cả, là hòa cả làng,có khi còn dắt nhau đi uống bia…Vậy thì ai có lỗi.Thằng trời đánh thánh đâm kia dám ăn nói láo xược,hay là cái thằng "TÔI" nhĩ ngã cố chấp đang ngồi cố ráp từ "cha mày" lại để dằn vặt nó, dằn vặt mình.
Không biết sao tôi cứ nghĩ là cái cười của Ngài là tiếng cười hữu thanh, cười ha ha, cười Eureka của Archimede khi tìm ra chân lý, chodù người đời hoảng hốt nói " Thằng – Điên" Không biết sao tôi cứ nghĩ cái cười của Ngài là tiếng cười vô thanh, cười lặng lẽ, cười phảng phất của Mona Lisa mấy trăm năm nay vẫn cười trong điện Louvre, mặc cho người đời bình phẩm "Cười gì".
Đại Trí nhược ngu, Đại Biện nhược nột,câu nói của Lão tử vận vào mới phù hợp với cái cười của Di Lạc làm sao.Có cái ngu ngơ chí thánh,có cái buông thả chí thành,có cái bùng phát chí cương chí dương của Càn, lại có cái thu liễm tận nhu tận âm của Khôn trong cái cười của Siêu
Thoát, cái cười Ba- la-mật-đa.Cái cười tối đa của cái khóc tối cùng. Nhìn ngài rồi nhìn Tuyết Sơn mới thấy mệt mỏi làm sao.Trước sau một vài A- tăng- kỳ kiếp đâu có sao??? Phải không Long Hoa Giáo chủ? Sao tôi không cười? Sao bạn không cười?Tôi không cười được bởi vì tôi
đang thiếu cái tôi cần.Bạn không cười được vì bạn đang cần cái muốn có.Chúng tôi đang đua chen, chúng tôi đang ngụp lặn.Chúng tôi đang phải giành lại đất Thánh Jerusalem, chúng tôi đang chống lại sự tràn ngập của phản văn hóa.Chúng tôi đang phải chống lại nạn kẹt xe và bạo
hành với phụ nữ.Chúng tôi đang phải…Chúng tôi đang phải…Và chúng tôi đang đối diện với Ngài, Di Lạc. Trái núi là trái núi , bắt đầu tu tập thấy núi không còn là núi nữa.Nhưng chỉ khi thấy núi chính là núi thì mới Phản bổn hoàn nguyên, "thõng tay vào chợ"
Vậy nụ cười của Ngài là Vô ưu bồ đề, sau khi đã trải qua tận cùng của Đại ưu trí tuệ.Nụ cười của ngài là Vô thọ bồ đề, sau khi đã Trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật
Mà hình như ngài cũng đang cười tôi?Có phải vậy không mà nói vậy hả? Không biết, tôi cũng chỉ biết cười trừ…tôi ra.
BS BÙI QUỐC HUY
Chùm thơ xuân Giáp Chuột
Gió xuân lăn núi lộn đèo sang
Làm rộn lòng xuân khách lỡ làng
Hây hẩy cây đu nhiều chị muốn...
Mà e lỗ đáo lắm anh đang...
------------------
Chú thích: Bài này muốn hiểu kỹ phải có bằng A tiếng Quảng , bằng B tiếng lái...gió và bằng C tiếng Hồ Xuân Hương
Chày Xuân
Giã oản mấy chày đã chắc chưa
Tiểu mồ hôi vã gọi không thưa
Vườn xuân rí rách dòng khe biếc
Quân tử du xuân thẩm ý chưa
Tự chúc Tết
Thơ nhàn ngâm tràn mãi
Trần gian lắm cuộc chơi
Thanh u Tuyệt Tình Cốc
Hoa vàng từng cánh rơi
Chén này nâng chúc bạn
Cánh én xuân lưng trời
Gửi chút tơ đồng về với gió
Nam Thiên nhất động thấy đâu người.
(Ngày 04/02/2008)
Chuyện Ông bà Táo trước Tết con Chuột
Ông Táo lên trời,cưỡi xế Chép
Thiên lôi chặn lại,hỏi giấy phép
"Ơ,mình tự chế,chạy đã lâu"
Dẹp
Táo bà gánh nồi cháo nghi ngút
Lên đãi các Táo xuân con Chuột
Thiên lôi hỏi:"Giấy an toàn đâu?"
Cút
(Ngày 31/01/2008 )
Táo
Hăm ba ông Táo lên chầu giời
Giời bảo chỉ báo cái mới thôi
"Khải bẩm,đồ hàng lên giá tất
Chỉ có giá quần tụt tí thôi"
(Ngày 31/01/2008)
Bùi Quốc Huy
Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2008
Trắc nghiêm IQ của Nhật cho người xin việc
Hướng dẫn:
Click chuột vào link trên rồi vào nút tròn màu xanh to để bắt đầu chơi. Click vào người để di chuyển. Nhấn vào điểm tròn trên cột ở bờ sông bên kia để di chuyển bè. Bạn phải tuân thủ các quy tắc sau.
Quy tắc:
- Mỗi lần chỉ được có hai người trên bè
- Cha không được để lại với con gái mà không có Mẹ
- Mẹ không được để lại với con trai mà không có Cha
- Tên trộm (Đầu đỏ, áo sọc) không được ở lại với bất kỳ thành viên nào của gia đình mà không có cảnh sát.
- Chỉ có người lớn (Cha, Mẹ và cảnh sát mới biết điều khiển bè)
Thứ Ba, 30 tháng 9, 2008
Thầy Bách - Bài của Bs. Lê Quang Thông
Bác sĩ Lê Văn Bách tốt nghiệp tại Đai Học Y khoa Saigon (1951 - 1958)
Y si Trung Úy ở Quân Y viện Duy Tân (Đà Nẵng) va Quân Y viện Nguyễn Tri Phương (Mang cá Huế)
Biệt phái về Đại Học Y Khoa Huế kể từ năm 1962
Tu nghiệp về Sinh Lý học taị Cộng Hòa Liên Bang Đức 1963 - 1964 (Hồi hương sớm hơn dự định vì mẹ mất)
Giảng dạy môn Sinh Lý học tai Đại Hoc Y Khoa Huế - Trưởng phòng Sinh Lý Đại Hoc Y Khoa Huế
Phó trưởng khoa đặc trách lâm sàng Đại Hoc Y Khoa cho đến năm 1975
Chủ nhiệm bộ môn nội Đại Hoc Y Khoa Huế, Chủ nhiệm khoa Nội bệnh viện Trung ương Huế từ năm 1975 cho đến 1995
Thầy mất ngày 2 tháng 4 năm 2002 vì Bệnh Phổi tắc ngẽn(Obstructive Lung Disease). Hưởng thọ 72 tuổi
Những người học trò Y khoa Huế đều nhớ đến Thầy.
Tại sao Thầy lại để trong lòng các sinh viên y khoa lòng kính trọng và ngưỡng mộ như vậy?Theo tôi,có lẽ do đức độ và lòng yêu nghề thật cao qúy của Thầy và trên nữa tôi nghĩ do tình cảm của Thầy với từng sinh viên mặc dù Thầy rất nghiêm khắc..
Tôi kể ra những kỷ niệm về Thầy để minh chứng cho nhận xét của tôi,có thể các bạn y khoa đồng môn sẽ bổ sung thêm những mẫu chuyện về Thầy nhân kỷ niệm ngày Thầy đi xa…
Sau khi học dự bị Sinh Hóa và lọai một số đối thủ thi vào y khoa khỏang 1000 thí sinh, lớp tôi khóa 12 y khoa Huế(1971-1978) lúc đó đậu chính thức 55, cộng với khỏang 20-25 ở lại, nên niên khóa năm đó khỏang 80 người,lúc đó từ năm nhất lên năm hai,năm hai lên năm ba…rớt như sung rụng, năm ba lên tư rớt khỏang 10-12, năm thứ tư và thứ năm mới yên tâm có thể ra trường.
Do chủ quan tự mãn sau khi vào được Y khoa(thời đó cũng như bây giờ sinh viên y khoa rất “sáng giá” trong tất cả phân khoa Đại học),năm đó thi lên năm hai kỳ 1(gọi là R1-hồi đó Y khoa Huế mỗi lần thi lên lớp được thi cả thảy 4 lần, R4 mà không xong là ra khỏi trường gọi là sortie lateral) tôi rớt ba môn trong đó có môn sinh lý học(SV hay gọi là Physio) .Bài của thầy Bách sọan rất hay sau khi ra trường chúng tôi còn giữ lại nghiền ngẫm nhiều điều thật lý thú,trong khi bài sinh lý của Thầy Nguyễn Cửu Khoa(nay ở Pháp) đơn giản hơn nhiều.
Tôi còn nhớ mỗi khi vào lớp, sau khi ngồi vào bàn thầy đọc như máy, tốc ký viết cũng không kịp…Trong những người chép nhanh chữ vẫn đẹp và rõ ràng làm tôi bái phục là Kiều Nga(nay là BS khoa nội Bệnh viện C-Đà nẵng), nên những lúc “tẩu hỏa nhập ma” không chép kịp tôi năn nỉ Kiều Nga cho muợn vở về chép-phải trả ngay vào hôm sau để mà viết tiếp-ráp nối từng đọan nhiều khi tôi vịết không kịp bỏ băng cả trang, hèn chi Kiều Nga luôn đậu đầu có học bỗng… còn tôi có bao giờ mơ tới học bỗng nổi(hồi đó không kể giàu nghèo SV đậu cao là có học bỗng).
Năm ấy ôm ba môn thi lại tôi chẳng biết hè là gì, trong ba tháng tôi về quê nội ở Văn xá cách Huế 14 cây số về phía Bắc “bế quan luyện công”, lúc đó áp lực thi cử rất nặng vì không có hõan dịch gia cảnh,chỉ cần ở lại là …vào Thủ đức móc lon chuẩn úy rồi chưa biết đi về đâu…và biết đâu ra chiến trường thì rất dễ ”xanh cỏ đỏ ngực”(ý của sinh viên lúc đó ám chỉ huy chương đỏ trên ngực nhưng dễ nằm dưới một nấm mồ xanh).
Kỳ R2 năm đó hai môn Anato và Histo tôi đậu dư điểm riêng môn Physio tôi vẫn thiếu ¼ điểm,tôi nhớ hòai đề thi Thầy,dù có học thuộc lòng cũng chịu vì đề thi có tính tổng hợp và phân tích nhiều bài nối kết nhau thật hóc búa ”Anh chị hãy nói về sinh lý sự đi”,có nghĩa là sinh lý từ bứơc đi chập chững của trẻ sơ sinh bởi sự kiểm sóat của vỏ não đến khi thành người lớn đi là một phản xạ tự nhiên bởi các trung tâm vận động, tôi viết gần 4 trang vậy mà…vẫn thiếu…điểm, điều này nếu ở lại lớp có nghĩa là phải ca bài “Thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi…”(Thà như giọt mưa-Thơ Nguyễn Tất Nhiên,nhạc Phạm Duy).
Tôi còn nhớ hòai như in đêm trứơc khi ra hội đồng cứu xét tôi đến nhà thầy dưới cơn mưa tầm tả, nhà Thầy ở chung cư đường Lê Lợi, tôi “phục kích” thầy vừa từ phòng mạch ở Bến Ngự về xúât hiện ngay chân cầu thang “ca bài năn nỉ…thầy giúp em khỏi đi lính…”,Thầy ôn tồn bảo rất nhẹ nhàng ”Anh về đi,nếu không đạt anh cứ ở lại học thêm cho giỏi,ngành y cần những BS giỏi thật sự chứ không cần những người kém cõi để thành những sát nhân…”.Thầy không đuổi nhưng thầy vào phòng khép cửa..tôi đứng hồi lâu hy vọng thầy mở cửa kêu vào nhưng thời gian cứ trôi qua, biết không kết quả gì…tôi lủi thủi ra về lòng buồn rười rượi…
Hai ngày sau hội đồng thi thông báo chỉ có hai người thiếu ¼ điểm được đậu vớt cho lên năm thứ hai là tôi nhờ có tham gia ban nhạc Y khoa-Ban nhạc lúc ấy gồm có:tôi là guitar solo,Nguyễn Hải Thủy (nay là PGSTS bộ môn Nội tiết) guitar accord kiêm Ca sĩ, Thám(nay ở đâu không biết)chơi trống,ban nhạc hay chơi lại các bản của ban nhạc Phượng Hòang như Tôi muốn,Yêu người yêu đời…giọng Hải Thủy lúc đó rất hay, cho đến bây giờ vẫn còn hay… và một người được vớt ¼ điểm nũa là Yên(con trai rạp xinê Hưng đạo,không biết nay ở đâu) nhờ có thành tích thể thao huy chương vàng chạy 100mét của viện Đại học Huế, tội nghiệp cho người bạn thân cùng phòng của tôi và cũng là guitar bass Nguyễn Đình Phương(nay là BS ở SanJose-Hoa kỳ)thiếu ½ điểm môn Physio đành phải ở lại năm thứ nhất, nhưng cũng may Phương có hõan dịch gia cảnh!
Hồi đó sinh viên tham gia sinh họat văn thể mỹ cũng có cái lợi mà riêng cá nhân tôi thật may mắn..(ở các đại học danh tiếng như Havard,Oxford … các sinh viên có thành tích thể thao văn nghệ được cộng thêm điểm,còn Việt nam thì …có lẽ linh họat?) tôi biết thầy vẫn giúp cho những sinh viên không thiếu điểm nhiều quá và có tham gia sinh họat cộng đồng, cả hội đồng nhất trí thì không mang tiếng thiên vị ai cả…Hồi đó thi cử thật công bằng và chất lượng, nên gặp một thầy ”đuya”(dur) mà môn ấy của thầy được tòan quyền sinh sát thì sẽ ra sao? Thật hú hồn cho năm đầu tiên của tôi tại Đại học y khoa
Năm thứ hai, sinh viên y khoa lúc đó đã “lẽo đẽo” theo các đàn anh đi lâm sàng với thầy, thầy còn nhắc “văn nghệ tất niên năm nay anh có tiết mục gì cho hay nhưng mà anh phải học cho đậu kỳ một đó nghe!..”, năm đó tôi với Trần Hữu Dàng(bây giờ là PGSTS bộ môn nội,chủ tịch công đòan Y khoa Huế),và Hà Thúc Thanh(nay ở Mỹ) tam ca bài “Mảnh Bằng” của AVT để nhớ rằng đọat bằng tiến sĩ y khoa Huế cũng không phải dễ xơi…Nhìn xuống hàng ghế đầu thấy thầy Tự(Sản khoa) cười rất to,thầy Bách thì cừơi nhẹ nhàng khi tụi tôi ca đến câu ”cái bằng to chỉ một gang thôi… mà sao con gái… mà sao con gái.. họ mê quá trời..”,cùng lúc điệu bộ diễn tả xòe bàn tay như đo một tấc, trong lòng tôi thật vui sướng biết mình biểu diễn thành công vì Thầy rất ít cười …
Năm đó rút kinh nghiệm “gạo” Physio thầy ngay từ đầu năm,chỉ với R1 tôi không có nợ môn nào,và năm đó tôi mới có một mùa hè thật… thú vị cùng lúc xinê Tân Tân chiếu phim “Tình thù rực nắng”…
Những năm sau giải phóng đi lâm sàng với Thầy,tôi thấy thầy luôn tới trước giờ hành chính thăm bệnh, sáng nào các SV cũng bình bệnh án đêm trực hôm qua, thầy nắm bệnh còn rõ hơn các SV năm thứ sáu,bổ sung nhiều dữ kiện lâm sàng mà thầy thu thập rất tinh tế mà bọn tụi tôi bỏ sót do khám không kỹ và thầy luôn đưa tất cả về một bệnh và giải thích cơ chế rất tài tình, sau này khi ra bác sĩ độc lập tác chiến tôi thấy chẩn đóan gom tất cả các triệu chứng về một bệnh thường là đúng hơn là bệnh chính, bệnh kèm,và các triệu chứng còn lẻ loi không giải thích được là phải xem chừng chẩn đóan sai…một lần tôi báo cáo bệnh nhân tử vong, sinh viên năm dưới được dịp thực tập xoa bóp ngòai ngòai lồng ngực tích cực đến nỗi gãy một khớp sụn sườn,thầy nhẹ nhàng trách móc các anh làm chi mà mạnh tay dữ rứa dù người ấy đã chết vì giai đọan cuối của một bệnh nan y…để thấy lòng nhân hậu của thầy đối với tất cả bệnh nhân..
Những tháng cuối cùng sắp ra trường, có lần đi lâm sàng thầy Bách đưa một bản ECG các bạn không ai đọc đúng, tôi đọc hội chứng Wolf Parkinson White, thầy khen ngơị - rất ít khi thầy khen ai trước mặt - các lớp dưới rất phục..(hồi đó nếu không rành về ECG hội chứng này dễ lầm với bloc nhánh hay nhồi máu…còn khi đã thành chuyên khoa tim mạch thì chẳng khó gì)
Từ đó tôi đựơc các SV lớp dưới thán phục về đọc Điện tâm đồ,thường theo tôi học hỏi…đâu có biết tôi là học trò ”chân truyền” của thầy Bửu-Cardiologist- thầy hay tận tình chỉ bảo cho tôi nhất là về ECG vì thầy thấy tôi cần cù siêng năng học hỏi…Riêng thầy Nguyễn Bửu tôi còn nhớ hòai kỷ niệm thầy hội chẩn với GS Trần Đõ Trinh,Gs Đặng văn Chung..chỉ với ống nghe thầy Bửu nói đây là Myxoma nhĩ trái,trong khi các thầy Hà nội thận trọng cần phân biệt hẹp hai lá, sau này chuyển thầy Tôn Thất Tùng mổ đúng là U nhầy nhĩ trái,tôi hỏi sao thầy tự tin vậy thầy bảo ống nghe chưa đủ phải phối hợp hỏi bệnh và khám lâm sàng,ca này có ngất khi thay đổi tư thế và tiếng rung tâm trương cũng thay đổi khi nghe tim nhiều tư thế khác nhau,tôi học được thầy Bửu là phải có lâm sàng phối hợp,sau này khi trở thành BS siêu âm, tôi nhớ lời thầy, không bao giờ để cận lâm sàng đơn độc và người BS siêu âm giỏi là nhờ nhiều kiến thức lâm sàng hổ trợ…
Hai người Thầy đáng kính về đức độ và tài năng trong nội khoa là thầy Bách và Thầy Bửu đã giúp cho tôi rất nhiều hành trang y khoa nhưng quan trọng nhất hai thầy truyền lại cho tôi phương pháp luận y học đó là “nhất nguyên” chẩn đóan, tất cả đều do một bệnh gây ra, hạn chế chẩn đóan nhiều bệnh trên một bệnh nhân,các triệu chứng nào xuất hiện trên người bệnh mà không giải thích được ta phải tìm cho ra kẻo sai sót chẩn đóan và thứ hai là luôn kết hợp lâm sàng khi phân tích xét nghiệm ECG, Xquang và nay là siêu âm,CT,MRI phải có lâm sàng hổ trợ tỷ lệ đọc đúng càng cao sai sót càng thấp…
Hôm nay hai Thầy đã đi xa(Thầy Bửu đang sống tai Hoa Kì) nhưng trong lòng những người học trò của Thầy vẫn tiếp tục nhớ mãi công ơn của Thầy và nhất là đức độ và tài năng luôn tỏa sáng và dẫn đường cho các thế hệ chúng tôi tiếp tục hành trình trên con đường đã chọn:Y Đạo!
Lê Quang Thông
Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2008
Chạy điểm ở ĐH Huế
Đáp án của môn tiếng Nga là... 110 điểm (!?)
Kết quả, ngoài phát hiện có đến 16/18 bài dưới 50 điểm được nâng lên trên 50 điểm, có một chi tiết gây sốc và nghiêm trọng hơn cả việc "từ 2 điểm nâng lên thành 50 điểm" là đáp án của môn tiếng Nga không hiểu sao lại thành... 110 điểm, chứ không phải 100 điểm như quy định! Điều này đồng nghĩa với việc những TS làm bài môn tiếng Nga được 50 điểm (làm bài thực chất) sẽ bị... rớt bởi căn cứ vào đáp án thì phải thiếu thêm ít nhất 10 điểm nữa.
Trong cuộc họp ngày 5-10 của ĐH Huế như đã dẫn trong số báo trước, có nhiều ý kiến đề xuất hướng giải quyết cho các TS từ rớt thành đỗ (nếu việc chấm lại của Bộ GD-ĐT cho kết quả như của ĐH Huế) là trả lại địa phương, xin lỗi TS, cơ quan, gia đình và bồi thường thiệt hại về tinh thần, vật chất vì những sai sót của ĐH Huế. Tuy nhiên trong trường hợp "chết oan" do kiểu làm đáp án cẩu thả như thế này thì làm sao mà xin lỗi, bồi thường?
Chưa hết, theo điều tra của chúng tôi thì ngay cả quy trình làm đề cũng có sai sót nghiêm trọng. Quy chế quy định trong quá trình làm đề phải có sự phản biện của người thứ hai cùng chuyên môn (để tránh sai sót), cũng như sau khi kiểm tra xong đề, trưởng môn thi và trưởng ban đề phải ký vào bản cuối cùng rồi mới được đem photocopy làm nhiều bản. Tuy nhiên trong bản đề thi gốc của môn tiếng Nga, đã không có chữ ký "nghiệm thu" của trưởng ban đề cũng như không được phản biện.
Nên coi đây là cơ hội để "đại phẫu"
Thời gian qua, so với nhiều địa phương khác trong cả nước thì ĐH Huế đã làm tốt công tác tuyển sinh, nhưng chỉ tốt ở cấp đại học, còn sau đại học thì lại... rất luộm thuộm, dễ dãi, dẫn đến nhiều sai phạm, tiêu cực. Điều đau lòng là các sai phạm không phải do lãnh đạo Đại học Huế tự phát hiện, mà đều xuất phát từ các đơn thư tố cáo.
Trở lại lá đơn tố cáo gửi cho Bộ trưởng Bộ GD-ĐT và Giám đốc ĐH Huế có đề cập đến một đường dây "chạy" điểm môn ngoại ngữ khi thi tuyển sinh cao học. Điều này không phải là không có cơ sở khi nhìn lại một thực tế: Các TS thi cao học xuất phát từ các tỉnh miền Trung (thường yếu môn ngoại ngữ) nên khi ra thi ở Hà Nội thường bị rớt môn này, trong khi ngược lại ở ĐH Huế, thi cao học mà rớt ngoại ngữ là chuyện hiếm.
Rất nhiều bạn đọc đặt câu hỏi: "Ngoài môn tiếng Nga ra, còn có thêm môn gì nữa?". Nhiều nguồn tin còn khẳng định: Sai phạm của môn tiếng Nga như báo nêu chỉ là phần nổi của tảng băng, còn tiếng Anh mới là phần chìm cần phải được lôi lên khỏi mặt nước.
Đây là một cơ hội để ĐH Huế dũng cảm làm một cuộc "đại phẫu" cắt đứt hoàn toàn những u nhọt để tái tạo lại hình ảnh, "thương hiệu" của mình. Trước mắt, việc cần làm ngay là trả lời câu hỏi có hay không một đường dây chạy điểm.
Một điều cần lưu ý nữa là hiện ở ĐH Huế, viêc ôn tập, ra đề, làm đáp án, chấm thi... các môn tuyển sinh cao học bao nhiêu năm nay chỉ "nằm trong tay" một nhóm người, nên tiêu cực là điều có thể nhìn thấy trước.
Ông Nguyễn Đức Hảo - Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Đắk Nông:
"Tôi thi đỗ bằng chính thực học của mình"
Chúng tôi đã có cuộc trao đổi qua điện thoại với ông Nguyễn Đức Hảo - Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Nông, người bị tố cáo đích danh là có tiêu cực liên quan đến một đường dây "chạy" điểm ngoại ngữ ở ĐH Huế. Ông Nguyễn Đức Hảo cho biết:
- Đúng là tôi đã thi đỗ, nhưng vì bận việc riêng nên hiện tôi đã xin bảo lưu kết quả, chứ chưa ra Huế nhập học được gần một tháng như báo nêu.
* Nhưng quy chế của Bộ GD-ĐT không cho bảo lưu đối với các trường hợp như ông?
- Tôi bảo lưu được thật. Hiện đơn xin bảo lưu của tôi đã gửi cho Trường ĐH Y khoa Huế (nơi ông học cao học - NV), tuy nhiên, ĐH Y khoa Huế chưa trả lời.
* Ông giải thích thế nào về đơn tố cáo ông "chạy" điểm môn tiếng Nga?
- Đúng là tôi kém tiếng Anh thật, nhưng tôi biết tiếng Nga, bởi tôi đã học tiếng Nga 6 năm hồi học đại học. Tôi khẳng định là tôi thi đỗ bằng chính thực học của mình, chứ không hề có chuyện chạy điểm như đơn tố cáo. Có thể là sắp tới, tôi được Tỉnh ủy Đắk Nông bổ nhiệm lại cán bộ, cho nên có thể có ai đó đã hãm hại tôi.
* Nhưng thực tế bài làm của ông chỉ xứng đáng được 26/100 điểm, nhưng lại được "biến" lên thành 52/100 điểm?
- Cái đó tôi không biết. Cái đó do trường (ĐH Huế - NV), do thiếu chỉ tiêu hay bệnh thành tích gì đó. Các anh cứ làm việc với ĐH Huế.
* Ông nghĩ thế nào nếu sắp tới ĐH Huế thông báo là ông thi rớt chứ không phải đỗ như ban đầu?
- Chúng tôi ra Huế thi đậu thì học, rớt thì thôi. Với tôi, thi cử không quan trọng. Vả lại tôi không quen ai ở ĐH Huế ngoài các thầy ở trường y, nên tôi khẳng định lại là không hề có đường dây "chạy" điểm như đơn tố cáo. Hiện tôi đang rất bực mình vì bị mang tiếng. Theo tôi, ĐH Huế nên để công an sớm vào cuộc để làm rõ.
Theo Tuổi Trẻ
http://www.suctrevietnam.com/Web/TinTuc/Content.aspx?distid=21406
Thứ Tư, 24 tháng 9, 2008
Thứ Hai, 22 tháng 9, 2008
'Ranh' ngôn
Hận kẻ bạc tình
Hận cả gia đình
Hận luôn hàng xóm
3. Miếng ngon giữa đàng, ai đàng hoàng là dại
4. Nhân nhượng là tự sát, độc ác là huy hoàng
5. Vạn sự khởi đầu nan, gian nan bắt đầu nản
6. Được voi đòi... Hai Bà Trưng
7. Không mày đố thầy dạy ai
8. Con gái đẹp là con gái trong mơ, con gái ngoan là con gái... trong
nhà trẻ
9. Một cô gái đứng trước tôi mà cúi mặt xuống có nghĩa là cô ấy đang
thẹn thùng vì thích tôi, còn nếu tôi mà nhìn xuống trước mặt 1 cô gái
thì đơn giản là tôi thích...cặp đùi của cô ấy.
10. Không phải người đàn bà nào cũng đẹp và không phải người đẹp nào
cũng là đàn bà
11. Có 1 cô gái sẵn sàng chết vì tôi, bạn có biết vì sao không, vì cô
ấy thà chết còn hơn phải yêu tôi...hu hu hu hu hu hu hu
12. Yêu em chẳng biết để đâu
Để trong nòng súng lâu lâu anh bóp cò..!
13. Làm sao kiếm được nhiều tiền?
Làm sao kiếm được tên miền thật ngon?
Làm sao giấc ngủ cho tròn?
Làm sao khi chết vẫn còn lưu danh?
Làm sao để tiền bóng banh?
Làm sao để nó nhanh nhanh sinh lời?
Làm sao sống giữa cuộc đời?
Làm sao sống được chơi bời xa hoa?
Làm sao cứ mãi trêu hoa?
Làm sao biết được người ta yêu mình?
Làm sao biết cách tỏ tình?
Làm sao biết được rằng mình đang yêu?
14. Tiên học lễ hậu học... ăn
15. Có chí thì... ghê
16. Thích thì chiều... anh liều... em té
17. Con nhà tông không giống lông... đỡ giống khỉ
18. Gần mực thì đen gần đèn thì... cháy
19. Bầu ơi thương lấy bí cùng... mai sau có lúc nấu chung một nồi
20. Thò tay mà ngắt cọng ngò thương em đứt ruột ăn tô phở bò.. thì hết
ngay
21. Thuận vợ thuận chồng... con đông quá mệt
22. Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối mặt cự um sùm
23. Có công mài sắt có ngày... chai tay
24. Kiến tha lâu ngày .... mỏi cẳng
25. Môi hở răng... hô
26. Trèo cao ngã đau, trèo thấp ngã cũng đau
27. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, chặt cây nhớ coi cảnh sát
28. Họ đi đôi với hành, hành đi đôi với tỏi
29. Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Mai sau có lúc ngoài đường "on sale
"
30. Ăn trông nồi, ngồi trông người bên cạnh
31. Qua cầu ngả nón trông cầu, cầu bao nhiêu nhịp tốn xăng dầu bấy
nhiêu
32. Nhà sạch thì mát, bát sạch tốn xà bông để rửa
33. Bạn bè có phúc cùng chia, có hoạ... trốn sạch ở nơi phường nào???
34. Nói tiếng anh như gió, gặp từ khó ta… bắn sang tiếng Việt.
35. Học, học nữa, học mãi, đúp... học tiếp!!!
36. Học, học nữa, hộc máu.
37. Xăng … có thể cạn, lốp … có thể mòn, nhưng số máy, số khung thì
không bao giờ thay đổi.
38. Nhìn thẳng mặt trời mãi không thấy lóa.... là hội người mù 100%.
39. "Thuê bao mà bạn vừa gọi hiện nằm ngoài vùng phủ sóng, nằm trong
vùng phủ chăn và nằm cạnh một thuê bao khác."
40. 1 năm có 365 ngày, vậy 1 ngày có bao nhiêu năm (đến bây giờ khoa
học vẫn chưa giải thích được).
41. Bạn có thể là anh hùng nếu bạn tên là Hùng và bạn có 1 đứa em.
42. Bạn có thể là bác sĩ mà không cần học nếu bạn tên Sĩ và có 1 đứa
cháu.
43. Khi có con mèo đen đi qua trước mặt bạn thì điều đó có nghĩa là nó
đang đi đâu đó.
44. "Ba nghìn bát phở gà mà chả có miếng thịt chó nào cả!"
45. Một điều nhịn là chín điều nhục.
46. Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà là cùng nhau nhìn về... cái xe
dựng ở gốc cây kẻo nó chôm chỉa mất.
47. Gần mực thì... bia, gần đèn thì... hút.
48. Bọn này đúng là càng lớn càng... nhiều tuổi.
49. Hãy sống để được chết một lần.
50. Nếu ở gần một người mà bạn thấy thời gian trôi thật nhanh, còn khi
xa người đó bạn lại thấy thời gian trôi qua thật chậm thì bạn nên đem
đồng hồ đi sửa.
51. Quân tử nhất ngôn là quân tử dại. Quân tử nhai đi nhai lại là quân
tử khôn.
52. Ai bảo chăn trâu là khổ, tôi nay chăn nàng còn khổ hơn chăn trâu.
53. "Em nai vàng ngơ ngác. Quần chết bác thợ săn"
54. "Cái con bé ấy không xinh, không khéo thì cũng chẳng được cái
gì.."
55. Cá không ăn muối cá ươn, con không ăn muối... thiếu iot rồi con
ơi.
56. (Tòa hỏi): thế hắn ta đã giết chết anh như thế nào hử?
57. (Tòa hỏi): Để đi lên được căn hộ đó thì phải đi qua một cái cầu
thang phải không? - Dạ phải. - Thế người ta có thể đi xuống bằng cầu
thang đó không?
58. Nước mắt em đang rơi ướt nhoè dòng chữ... (viết thư điện tử cho
người yêu)
59. Sao cái thằng ấy dốt thế, mình không biết mới hỏi nó chứ!
60. Bạn hãy nhớ đừng bao giờ nhìn thẳng vào .... mặt mình mà hãy nhìn
qua gương.
61. Vịt là 1 loài có 2 chân, chạy nhanh hơn... rùa, bay cao hơn...
chuột, tuy nhiên lại bơi kém con... cá.
62. Muốn diệt chuột xin bạn hãy mua 1 khẩu AK47 và 10 băng đạn, lùa
chuột vào nhà rồi đóng cửa lại , sau đó bắn đạn qua cửa sổ cho đến khi
nào không nghe thấy tiếng kêu nào nữa thì thôi. Nhớ chọn loại súng tốt
và đạn có sức công phá.
63. Ðừng bao giờ xem Tivi mà quên chưa cắm điện, và nhớ là đang ăn thì
không được đánh răng đâu đấy.
64. Một dòng sông mà chia làm 2 nhánh có nghĩa là... nó bị tõe làm 2
nhánh (kết quả nghiên cứu sau 30 ngày của nhà văn Nguyễn Tuân).
65. Trông bạn quen quen, hình như tớ... chưa gặp bao giờ.
66. Khi bạn gặp chó dại hay rắn độc thì bạn hãy đứng yên để cho nó
cắn, vì đằng nào chạy thì nó cũng... cắn.
67. Bạn có biết ai mà bạn ghét nhất và căm thù nhất không? Ðó chính
là... kẻ thù của bạn.
68. Ðừng hỏi tôi bạn là ai, hãy hỏi mẹ của bạn.
69. Một người mà 90 tuổi thì chắc chắn là sống lâu hơn người 60 tuổi
rồi, bạn nhỉ.
70. Nếu bạn không mua được cái gì bằng tiền, bạn hãy tin rằng nó sẽ
mua được bằng... nhiều tiền hơn.
71. Có những điều mà 1 người không biết, 2 người không biết, 3 người ,
4 người... cũng không biết thì đơn giản là họ có biết cái quái gì đâu.
72. Ai cũng giữ lời hứa nếu họ còn nhớ đã hứa những gì.
73. Chúng ta đang có tất cả nếu chúng ta đang có 1 vật có tên là "Tất
cả".
74. Chị mắng em trai: "Cái thằng quỷ sứ, làm gì mà cứ huỳnh huỵch lên
thế, chẳng có 1 chút... nữ tính gì cả".
75. Thà ngu vì thiếu iốt còn hơn là thiếu iốt mà vẫn ngu (hic, nó nói
cái gì thế).
76. Chiến tranh sẽ không xảy ra nếu quân đội Irắc mạnh hơn quân Mỹ và
Nato (ai nói câu này, Bush chứ ai).
77. Hâm mộ mọi phụ nữ thì là hội chứng Ðông Gioăng, chỉ hâm mộ 1 phụ
nữ thì đó chính là Ðông Ki Sốt.
78. Không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ nữ ... không đẹp.
79. Em đứng một mình thì em xinh nhất hội.
80. Bạn đừng tán tỉnh 1 người phụ nữ đang... đi với chồng cô ta.
81. Bạn có biết Triết học là gì không, tôi xin giải thích "Triết học
là 1 hiện tượng luận về hiện tượng mà đôi khi chúng ta luận về hiện
tượng đó thì đúng là hiện tượng luận cho nên người ta mới gọi hiện
tượng luận là luận về hiện tượng đó nhưng hiện tượng đó đôi khi không
là hiện tượng luận nên luận về hiện tượng đó là hiện tượng luận" (thấy
chưa, dễ hiểu quá đi, đừng nói triết học khó nữa nhá).
82. Muốn thắng trong điền kinh thì tốt nhất là vừa chạy vừa... rải
đinh.
83. Bom nguyên tử là phát minh để ... kết thúc các phát minh khác.
84. Nếu bạn mặc quần áo ra đường mà bị chê xấu thì tốt nhất bạn không
nên mặc quần áo nữa.
85. Con ơi, 2 giờ sáng rồi đấy, dậy rửa mặt rồi uống thuốc ngủ đi con.
86. Trông mày khôn lắm cơ thằng ngu ạ.
87. "Trúc xinh trúc mọc đầu đình. Em xinh em hút thuốc lào cũng xinh".
Sưu tầm từ http://www.haiduongonline.net/collected/RanhNgon.htm
Thứ Ba, 16 tháng 9, 2008
Hoài Cố Nhân
Có ai ngờ được tái ngộ hôm nay
Vẫn biết cái tự do mong manh lắm
Mỗi ngày qua thêm thất vọng mỗi ngày.
Ta muốn biết trần gian là có thực
Hay chỉ là ảo mộng của từng ai?
Mà trông ngóng,mà giận hờn đủ thứ
Hết lăm le...thề thốt...lại thở dài!
Yêu biết mấy khi đời không mộng ảo
Mà trở về dường vẹn dáng người yêu
Ta tự hỏi bao ngày qua có phải
Là mười lăm năm Kim Trọng -Thúy Kiều
Ta chỉ tiếc dung nhan xưa úa héo
Biết đâu cầm sắt hay cầm kỳ
Khi nhìn lại,cười nhau - ôi quá khỉ
Người hôm qua,hay người của ai ri???
Thứ Hai, 15 tháng 9, 2008
Khổng Tử Thán (Lời than của Khổng Tử)
* *
Chao ôi! Đã mấy ngàn năm,giờ còn khổ trí
Nắm xương tàn mờ mịt dưới Khổng Lâm,kẻ hậu sinh giờ còn chê bỉ.
Ta xưa:
Cả đời người gót lỏng trán mòn,khốn khổ chốn Trần,Khuông
Một chớp mắt bước lỡ sa cơ,nhọc nhằn nơi Tống,Vệ
Đem nhân nghĩa giáo hóa quân vương,biến nguy thành an
Lấy cương thường vun trồng xã tắc, đổi loạn ra trị
Dạy ba ngàn đệ tử,có trò nào bằng thật học chơi
Kén bảy hai cao đồ,có kẻ nào tiền mua tiến sĩ
Vậy mà:
Kẻ nối dòng chẳng hiểu chí cha ông,loạn thuyết ngẩn ngơ
Ngưòi đọc sách chẳng truy tầm tôn tích,xảo ngôn phi lý
"Nào quân sử thần tử…"phải của ta đâu,mà tội nghiệt là Đổng Trọng Thư
"Nọ nam trọng nữ khinh…" đời nào ta xướng,chính là Tống Nho cổ súy
Ta dạy lấy tu thân làm gốc bay chẳng chịu nghe
Ta dạy lấy chính tâm làm nền bay còn cãi lý
Cho nên:
Việc học càng ngày càng xa rời bản gốc,mưu lấy vinh thân
Việc hành cũng chẳng theo lề thói xưa nay,chỉ mong thỏa ý
Sử sách ông cha không học,chỉ rành chuyện xướng ca vô loài
Di tích nước nhà không giữ,sướng lên còn đem ra mạ lỵ
Sao lại:
Trách chi ta,kẻ đã mấy ngàn năm về với mây ngàn
Sao chẳng nhớ hậu trách nhân còn tiên trách kỷ
Vứt cái học vẹt tầm chương trích cú,phải tự mình tìm lấy đường đi
Chôn cái học sách vở giáo điều,chính hiện thực mới là chân lý
Ta khuyên:
Ban ngày cố gắng kẻ dùi mài nơi học đường,kẻ bôn ba chốn thương trường
Tối đến bỏ chút thời gian,lên mạng tìm thông tin, đào sâu nghĩa lý
Kẻ biết rồi chỉ kẻ chưa biết,chị ngã em nâng
Người u mê hỏi kẻ tỏ tường,em sai anh trị
Chừng ấy:
Việt nam dòng dõi Rồng Tiên
Con cháu càng gắng chí
Sợ chi Âu Á Tây Tàu
Việc gì đuổi ta về nghỉ
Lúc ấy mời ta ,ta cũng chẳng dám sang vì sợ rằng cái đám hậu sinh
Ở xứ sở Man di xưa giờ đã có nhiều tên khả úy.
Cánh thành
Hữu chí
BÙI QUỐC HUY
Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2008
Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2008
Cách đăng bài trên website của lớp
Bài đăng nên đánh bằng các font tiếng Việt Unicode quen thuộc như Times New Roman, Arial, Verdana, Tahoma. Đầu đề của bài các bạn hãy để trong phần Subject, còn nội dung thì nằm trong phần nội dung email. Để đưa hình lên, các bạn chỉ cần đính kèm hình theo email là xong.
Hy vọng với cách đăng bài dễ dàng này, website lớp ta sẽ càng ngày có nhiều bài mới thật hay và thật vui.
Thân,
Phạm Tuyên.
Bộ Gõ và Fonts Tiếng Việt
Trợ giúp cài đặt ở đây: http://www.unikey.org/support.php
Hướng dẫn sử dụng ở đây: http://www.unikey.org/manual/ukmanual.htm
Và tải các font tiếng Việt ở đây: http://winvnkey.sourceforge.net/webhelp/winvnkey_manual/c_font_requirem
Thứ Năm, 14 tháng 8, 2008
Tiếng trống đồng Mê Linh
Viết tại Đà Lạt, tháng Tư 2005
Tìm hiểu về cổ sử Việt Nam là một đề tài phức tạp, hấp dẫn nhưng cũng gây nhiều tranh cãi.
Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà sưu khảo độc lập Trương Thái Du quanh vấn đề tìm lại manh mối về Hai Bà Trưng.
Nội dung trong bài viết là quan điểm riêng của tác giả. Rất mong nhận được ý kiến tranh luận, phản hồi từ quý vị độc giả trong tinh thần cởi mở, tương kính và lành mạnh.
Lời phi lộ: Bài viết này tiếp tục chuỗi tìm hiểu cổ sử Việt Nam của tác giả và nằm trong hệ thống các hệ quả từ một cách tiếp cận chưa được thảo luận rộng rãi. Về cơ bản cách tiếp cận này như sau:
1. Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là Đan Dương (nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Sau hàng ngàn năm nam tiến của các đoàn quân đế quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển dần về phương nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ.
2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang. "Thục Vương tử" tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xã hội theo mô hình Văn Lang Động Đình Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu
hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi.
3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc mình là Đất Nước, khi ký âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Chữ Tây này tồn tại cho đến hôm nay trong trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng Tây. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con
người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ. Chính cội rễ ấy đã che hết những mối nối ký ức, những khoảng trống và "mưu mô" của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn.
Mặc dù còn rất nhiều sai sót, nhầm lẫn và mâu thuẫn trong các bài viết đã phố biến đây đó, tác giả hy vọng cách tiếp cận cốt lõi của mình nên được các nhà sử học chuyên nghiệp tham khảo nghiêm túc. Trong khi vẫn tiếp tục chỉnh lý chiều sâu văn bản cho một tập hợp mới nhằm đi đến xuất bản chính thức, sự mở rộng phạm vi của cách tiếp cận này là cần thiết.
Mùa xuân 2005, tròn 1962 năm ngày Hai Bà Trưng bỏ mình vì nước, xin được viết bài này như nén hương lòng thành kính dâng lên Hai Bà. Mong âm linh liệt mẫu giúp đỡ con cháu Việt Nam của mình làm sống dậy tiếng trống đồng bất khuất của nền văn minh Lạc Việt, để người đời có cái nhìn khác đi với hình ảnh sáo mòn vay mượn "phất cờ khởi nghĩa" của cuộc binh biến mang tên Tự Do mà Trưng Trắc là lãnh tụ, là vị Vua Bà bất tử đầu tiên và cũng là cuối cùng của mảnh đất tiền Việt Nam.
1. Thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu quyền?
Rất nhiều sử gia đã đồng tình rằng theo Thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà còn sát cánh bên phu nhân của mình trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mã Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy vào Kim Khê, ba năm sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế nào thì Thủy Kinh Chú bỏ lửng. Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mã Viện bắt và chém đầu rồi đem thủ cấp về Tàu báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ. Hậu Hán Thư chép bà Trưng Trắc bị xử trảm. Ở đây tôi muốn trả lời câu hỏi: Tại sao sử gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay Tô Định khai tử ông Thi?
Ý kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng các nhà Nho, khi viết sử phải "giết" ông Thi, vì nếu ông còn sống mà bà Trưng Trắc làm vua thì ngược lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ hình như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ Thục Nương (bát nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt còn ẩn chứa hàm ý sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi dậy.
Trưng Trắc và Trưng Nhị đã tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ mình là bà Man Thiện. Thành công, Trưng Trắc xưng vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi "Hận người tham bạo, thù chồng chẳng quên… phất cờ khởi nghĩa". Chuỗi luận thật tròn trịa, dễ ru ngủ người đời. Thật sự nó đã ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng ngàn năm.
Quả tình ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất "môn đăng hộ đối" với Trưng Trắc, chứ không phải một anh lực điền tứ cố vô thân được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu (theo quan điểm phụ hệ sau này). Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở rể hay rước dâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đã theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc phải về nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê Linh. Do đó ta thấy vai trò của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá thời ấy hơi khác thường.
Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất
Trương Thái Du
Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ sang Mê Linh. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí Trưng Nhị còn có thể thừa kế cả anh rể mình nữa, điều này hoàn toàn không có gì xa lạ với nhiều bộ tộc còn chậm tiến trên thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ Châu và Trọng Thủy trước đó hơn 200 năm làm một điểm tựa. Hình ảnh truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa, cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần
được bảo vệ như một "thái tử" trong cơn nguy cấp. Có thể tham khảo thêm bộ sử "Tam Quốc Chí" của Trần Thọ (năm 233 – 297): "Ở hai huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận Cửu Chân, anh chết thì em trai lấy chị dâu".
Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền. Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đình mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền thì đi xa hơn, quyền hành gia đình và xã hội nằm tất ở nữ giới, lãnh tụ phải là nữ giới. Do đó việc tồn tại các nam thủ lĩnh trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn với nội dung mẫu hệ. Nội dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn bản huyền sử Việt Nam, mặc dù nó đã bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập khá bài bản và công phu.
Rõ nhất phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cặp khái niệm "Mẹ - Đất (núi)" và "Cha – Nước". Trong trật tự lời văn của Lĩnh Nam Chích Quái: "Long Quân nói: Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Rõ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ không phải Âm. Minh chứng thêm ở đây: tết Đoan Dương (ngày nóng nhất trong năm, dương khí cực thịnh) hay còn gọi là Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch cũng là ngày giỗ Âu Cơ. Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo chiều hướng nào đi nữa vẫn không thể thay ngày giỗ mẹ bằng giỗ cha. Trong câu ca dao: "Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như
nước trong nguồn chảy ra", cặp "Mẹ - Đất (núi)" và "Cha – Nước" trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đã bị chế độ phụ hệ hoán đổi trật tự một cách rất khéo thành "Mẹ - Nước" và "Cha – Núi (đất)". Bản thân yếu tố "Thái sơn" rặt Tàu cũng cho thấy đâu là nguyên nhân của sự thay đổi ấy. Sẽ có người phản bác lập luận của tôi: xét theo cấu tạo của bộ phận sinh dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất không ổn. Một cách tình cờ lưỡng nghi (hào dương và hào âm) của Kinh Dịch có thể tương đương với Linga và Yoni của người Chiêm Thành. Tuy nhiên khi so sánh ngực người nam và người nữ thì rõ ràng giống cái lại chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các góc nhìn mà thôi.
2. Một cách lý giải toàn cảnh
Năm 111 TCN Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần 100 năm vương triều của họ Triệu. Tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng, một tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần (nó tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu) bắt đầu được Hán Vũ Đế mở mang. Chín quận mới liệt kê ở Hán Thư là Đạm Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm nói lên tính tự cao, tự đại, lòng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán.
Sau hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất phương nam đã chiếm được và đặt quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số 9 quận thuộc Giao Chỉ bộ), đầu công nguyên nhà Tây Hán bắt đầu dòm ngó xuống ba quận ảo là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lần đầu tiên ta thấy xuất hiện chức danh Thái thú của quận Giao Chỉ là Tích Quang (năm 1 đến năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này chắc chắn chỉ là lãnh đạo một sứ bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa "thông giao" đến đất mới thăm dò, thám thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô hộ. Công việc của Tích Quang còn dang dở thì Trung Nguyên hỗn loạn vì Vương Mãng cướp ngôi.
Năm 23 Lưu Tú dẹp được Vương Mãng tiếm quyền nhưng Trường An đổ nát, hoang tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Để nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử sang Cửu Chân. Những chính sách mị dân mà Tích Quang và Nhâm Diên áp dụng khi ấy không ngờ còn lưu truyền tới tận thế kỷ 20, với vỏ bọc hình thức khá ngây thơ. Đến tận Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim gần đây vẫn còn viết: "Người ấy (Tích Quang) hết lòng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục". Và "Dân sự quận ấy (Cửu Chân) ái mộ Nhâm Diên, làm đền thờ."
Năm 34, có lẽ do chủ quan khi nhận định tình hình sau hai cuộc thám sát, Hán triều cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống đồng bằng sông Hồng để tiến hành thực dân hóa quận Giao Chỉ. Nhiệm vụ của tân thái thú chắc chắn là phải xây dựng bộ máy bóc lột nhằm biến quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân, chứ không thể mãi mãi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ đại Hán. Có thể Tô Định đã tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu và áp Hán luật vào đời sống nhân dân sở tại. Không còn những hành động khoan hòa vờ vĩnh kiểu Tích Quang, Nhâm Diên. Tự do của người bản xứ đã bị xâm hại nghiêm trọng. Trưng Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận nơi Tô Định đặt bản doanh chịu sức ép
thực dân nhiều nhất đã đứng lên hiệu triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết đánh đuổi thù chung.
Hai Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng tình hưởng ứng khắp nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) mà không hề có một trận chiến ra trò nào để sử sách hoặc dân gian truyền lại. Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở trên là hợp lý. Qui mô đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh đấm gì được.
Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh.
Mùa xuân năm 42 Mã Viện mang theo quân thiện chiến sang quận Giao Chỉ. Bằng kinh nghiệm lọc lõi của một tên tướng phong kiến, Mã Viện kiên nhẫn đóng quân tại Lãng Bạc và nghe ngóng tình hình. Hai Bà Trưng chủ động tấn công trước và thất bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba Vì). Mã Viện tiếp tục truy kích và tháng giêng năm 43 đã bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu được vài tháng nữa mới tan rã. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quý Mão, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành hình. Ở đây xuất hiện hai khả năng: Một là Mã Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa buông vũ khí ra trình diện. Hai là Mã Viện thuyết phục Hai
Bà kêu gọi nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng biết chắc một điều Hai Bà Trưng đã không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ mình.
Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mã Viện dẫn đến một liên tưởng hơi ngoài lề: Hậu Hán Thư không ghi nhận tổng quân số của Mã Viện nhưng chỉ riêng cánh tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai ngàn chiến thuyền và hơn hai vạn lính. Vậy ít nhất Mã Viện phải thống lĩnh lực lượng gấp rưỡi con số này cho trận đánh với Hai Bà Trưng. Cũng theo sách ấy, Mã Viện đã giết hại cả ngàn quân của Hai Bà Trưng và bắt sống hàng vạn tại Lãng Bạc. Như thế có thể đoán quân của Hai Bà Trưng cũng tròm trèm con số vài vạn, ngang ngửa với quân Mã Viện. Với lực lượng bề thế nhường ấy, nếu Cổ Loa của An Dương Vương thực sự được xây dựng tại đồng bằng sông Hồng (chứ không phải ở Quảng Tây như giả thuyết của tác giả bài này), thì tại sao Hai
Bà Trưng không củng cố thành cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thực địa đền Cổ Loa Đông Anh chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bị sông lớn, suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có hơn 2 năm để chuẩn bị một cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và Loa thành từng hiện hữu ở Việt Nam có thêm một nghi chứng phủ nhận.
Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên bình diện văn minh mà dè dặt nói: Kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mã Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước một mô hình xã hội tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xã hội, phân công lại lao động, đưa con người và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng đã phải đương đầu với Mã Viện, một tên tướng xâm lăng nên nguyên nhân thất bại cốt lõi của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không phân biệt trình độ nhận thức.
3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa
Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử trảm. Các tùy tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu Chân (Thanh Hóa). Mã Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 thì hoàn thành cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận bất khuất không nhỏ đã lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lý và là chi tiết quan trọng, vì trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi hòa lẫn vào những bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ đã góp phần xây dựng nên đế chế Chiêm Thành sau này.
Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau, sống ở đảo Sumatra, Indonesia. Họ có khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là người Minangkabau. Họ vượt eo Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15 đến TK 16, và ngày nay sống rải rác trên một diện tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri Sembilan dịch nghĩa là "Nước (số) chín". Chữ "nước" ở đây đồng nghĩa với chữ "Nagar - nước, xứ sở" của người Chiêm Thành và chữ "Lạc – nác, nước" của người Lạc Việt xưa. Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64
km.
Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lãnh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Undang. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc, Trưng Nhị [1].
Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị em gái mình và những đứa cháu. Nữ giới lập gia đình thường ở lại nhà cha mẹ họ. Những người chị đã lập gia đình luôn có mối liên hệ gần gũi với các em gái chưa lập gia đình, thậm chí họ còn ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là những nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn hóa Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đình đi tìm tương lai. Họ buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều các ông chủ lớn nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đã vài thế kỷ. Tuy nhiên truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đã hòa hợp một
cách đáng ngạc nhiên.
Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong những cộng đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và nhân loại học. Ngành du lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch người Minangkabau đã không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và đã di cư đến Nam Dương bằng thuyền.
Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không ít người suy tư: "Ở Indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn hình thuyền, một mặt lại giống mái cong của đình chùa Việt Nam [2]".
Xin hãy tham khảo một giai thoại Minangkabau [3]: Ngày xưa có một mối bất hòa giữa người Minangkabau và người Java, thay vì giải quyết bất hòa đó bằng một cuộc chiến với máu đổ không cần thiết, họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có một con trâu khổng lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người Java rất tin tưởng con trâu của mình sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu đã thắng mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận đấu họ buộc một con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ mình. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để tìm vú. Con trâu kềnh càng đã bị chết vì dao đâm thủng bụng. Và người Minangkabau đã chiến thắng. Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến
thắng, kabau là trâu.
Bất kỳ người Việt nào cũng tìm thấy ở câu chuyện trên một thứ gì đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng. Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, một triết lẽ giản dị nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và lòng yêu chuộng hòa bình, hòa hợp, lấy trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu. Và tôi chợt hiểu, linh vật trâu vàng cho lễ hội thể thao khu vực Đông Nam Á đầu tiên do Việt Nam tổ chức, tức Seagame 2003, đã được chọn bằng tâm thức văn hóa, lịch sử.
Phải chăng người Minangkabau ở Indonesia và Malaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm người phụ nữ Việt Nam bất khuất? Câu trả lời đang ở một tương lai rất gần.
4. Vua Bà và trống đồng
Xưa từ Hùng ý chỉ thủ lĩnh một vùng. Tùy Thư (thế kỷ VII), thiên Địa Lý Chí Hạ còn ghi "Người man (tức người Lạc Việt) ai giàu mạnh là người hùng". Con vua Hùng là Quan Lang cai quản địa phận trực thuộc, qui mô chắc cũng như làng xã ngày nay. Chữ "Làng" có thể xuất phát từ chữ "Lang" trong "Quan Lang", người Mường gần đây vẫn còn Quan Lang. Vậy có thể hiểu "Hùng" là người đứng đầu thị tộc mẫu hệ. Liên minh thị tộc mẫu hệ sẽ hình thành dạng nhà nước sơ khai như Văn Lang, và Vua Hùng hẳn là lãnh tụ của nhà nước sơ khai ấy.
Khi lưu vong đến Quảng Tây, các bộ tộc Lạc Việt cổ từ Động Đình Hồ vẫn còn gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia, nó thể hiện trong truyền thuyết xung đột giữa "Thục vương tử" và Vua Hùng. Tuy vậy trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc của An Dương Vương) và 111 TCN (năm Lộ Bác Đức bình định Nam Việt), những nhóm người đi tiếp xuống đồng bằng sông Hồng có lẽ đã không thể bảo tồn hình thái xã hội Văn Lang cũ. Điều này khá dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù chắc chắn tồn tại ít nhiều nhóm chủng tộc gốc Nam Á du canh du cư với kinh tế hái lượm, săn bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp, mùa mưa ngập lụt chia cắt, dân số ít, giao thương trở ngại… Đến đầu công nguyên, ít nhất là tình hình dân số của các bộ
tộc Lạc Việt ở đồng bằng sông Hồng đã được cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc của nhà Đông Hán, Hai Bà Trưng đã liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau đánh đuổi Hán quan, xưng vương.
Ở xã hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: "Khi chiến tranh thì trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống" – đây phải chăng là câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mã Viện với quốc bảo trống đồng. Thật vậy, Mã Viện nam chinh đã phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế là sau khi giết hại vợ chồng bà Trưng, Mã Viện vội vàng cho quân lính đi thu gom trống đồng nhằm bẽ gãy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước. Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, còn hiện tượng Mã Viện nấu
đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn lòa xòa che mắt sự thật lịch sử.
Tôi đã gặp rất nhiều người Việt Nam không tin tổ tiên họ là chủ sở hữu của trống đồng, hoặc cho rằng đề cao trống đồng như quốc bảo của dân tộc là thiếu chứng lý. Họ bảo không như người Tráng tại khu tự trị Quảng Tây Trung Quốc (tức hậu duệ những thần dân của An Dương Vương không di cư chạy giặc Triệu Đà xuống đồng bằng sông Hồng năm 179 TCN) vẫn còn sử dụng trống cho lễ hội, trống đồng ở Việt Nam chỉ đào được nơi các vỉa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên nhân mang tên Mã Viện tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đã phải đành đoạn chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu mình mãi mãi trân trọng và giữ gìn nó
Cùng với việc hủy hoại trống đồng và làm tan rã hình thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất Việt Nam cổ, Mã Viện đại diện cho nhà Đông Hán cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị là Làng, Xã. Do được tự trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người Việt Nam đã luôn được nuôi dưỡng dưới các nếp nhà sau lũy tre làng. Từ "Làng Nước" sinh ra từ đây. Làng trở thành một đất nước độc lập tự chủ thu nhỏ của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800 năm sau, tinh thần ấy lớn mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô lệ. Khi người Việt có quốc gia rồi, thì làng xã lại trở về thế đối lập một cách tương đối với các chính sách chính trị tổng thể của chính quyền trung ương. Để dung hòa lợi ích nhà nước
và làng xã, mỗi làng đã được chính quyền chọn ra một vị thần được ưa chuộng nhất để sắc phong làm Thành Hoàng. Như vậy mâu thuẫn đã được giải quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của làng là thánh linh (hoặc một con người có thật đã được thánh hóa), được ông vua của cả nước hợp thức hóa bằng một văn kiện.
5. Kết luận
Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một thiên niên kỷ lưu vong từ chiếc nôi Động Đình Hồ, từ châu Kinh, châu Dương bên bờ Trường Giang khi văn minh Hoa Hạ nam tiến và nước Sở được hình thành. Đến Trưng Trắc thì sức người có hạn, văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn đã tận mà thủy thì mênh mông, đa số họ bắt buộc phải dừng lại, nhẫn nhục chấp nhận thêm tám trăm năm nô lệ nghiệt ngã.
Máu lưu vong trước nghịch cảnh chính trị của tiên tổ người Việt Nam đã hơn một lần bùng phát, già ngàn năm trở lại đây nơi hậu duệ của họ: Khi nhà Trần tiếm đoạt vương quyền, một nhánh họ Lý đã chạy qua Cao Ly. Lê – Mạc đấu đá rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, bao người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu Long trù phú. 1954 và 1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào nam, hoặc ra biển tỏa khắp năm châu. Ai đó đã có lần so sánh người Việt Nam với dân Do Thái ở góc độ lưu vong, cũng chẳng khập khiễng chút nào.
Tự đặt mình vào bối cảnh năm 40 sau Công Nguyên, tôi bỗng thấy hình ảnh sáo mòn Hai Bà Trưng "phất cờ khởi nghĩa" có vẻ không hợp lý. Nên chăng hãy hình dung những hồi trống đồng liên hoàn dưới các nếp nhà sàn hiền hòa, thôn nối thôn, làng tiếp làng, thị tộc này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong âm vang tự do dưới sự lãnh đạo của Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét sạch bắc quân xâm lược.
Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở bán khai trên đất mảnh đất tiền Việt Nam. Thời điểm này chính là hoàng hôn trước đêm dài nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để học hỏi, tự hoàn thiện mình. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lý Nam Đế cùng các phụ triều trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tròn bắc thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn minh Việt Nam hình thành trong gian
khó và thử thách đã lớn mạnh vượt bậc. Từ đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống chế được họ nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới một nền khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xã hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sự đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tròm trèm 80 năm mà thôi.
Nếu không kể đến An Nam Chí Lược (1335) của một kẻ bán nước, từ quyển hiến sử đầu tiên còn lưu lại đến ngày này là Đại Việt Sử lược (1377 – 1388), sử gia Việt Nam vừa xem sách Tàu, vừa chấm bút lông vào nước lã để viết về ông Thi. Thậm chí họ còn sơ ý nhầm tên chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách! Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà Trưng Trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy suy diễn chủ quan, nô lệ sách Tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô hình chung đã tô son trát phấn lên bà mẹ chân đất được Thủy Kinh Chú mô tả là "vi nhân hữu đảm dũng". Kết quả là
người mẹ vĩ đại của họ chẳng đẹp hơn tí nào. Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và đồng bóng của bà.
Mảnh đất hình chữ S có tên Việt Nam ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là tuyên bố rõ ràng nhất về vai trò lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lý thuyết học thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng, vị Vua Bà đầu tiên và cuối cùng của mảnh đất Việt Nam, người mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
Chú thích
[1] Các ngữ âm dẫn theo gợi ý của Phạm Chánh Trung – Trang web viethoc.org
[2] Văn ngọc: Từ những ngôi nhà hình thuyền, www.zdfree.free.fr/diendan/articles/u125vngoc.html
[3] Dẫn theo Dien A. Rice: "Minangkabau Life and Culture", www.haqq.com.au

























